lời hay ý đẹp

KÍNH CHÚC CHƯ TÔN ĐỨC TĂNG NI, QUÝ ĐẠO HỮU PHẬT TỬ NĂM MỚI VẠN SỰ AN LÀNH, CÁT TƯỜNG NHƯ Ý.

Thứ Hai, 2 tháng 3, 2015

Ý Nghĩa Tụng Kinh Dược Sư Và Niệm Phật Dược Sư


Đức Phật Thích Ca cho biết trong thế giới mười phương đều có vô số các Đức Phật. Và Ngài giới thiệu cho chúng ta hai vị Phật đặc biệt có duyên với chúng sinh ở Ta bà. Đó là Đức Phật Di Đà ở thế giới phương Tây và Đức Phật Dược Sư ở thế giới phương Đông.
Hai vị Phật Di Đà và Dược Sư cũng phát xuất từ con người như chúng ta, cũng bị vô minh ngăn che, phiền não quấy rầy. Nhưng các Ngài khác chúng ta ở điểm đã chuyển hóa những hiểu biết sai lầm của con người thành hiểu biết đúng đắn hoàn toàn và chuyển đổi những việc làm xấu trở thành công đức, cũng như đã phát huy được ba nghiệp thân khẩu ý  đến mức thanh tịnh hoàn toàn, sáng suốt trọn vẹn và thành tựu nhiều việc làm lợi ích cho cuộc đời. Những thành quả tuyệt vời như thế trên bước đường hành Bồ tát đạo mới tạo thành quả vị Phật của Đức Di Đà và Đức Dược Sư.
Phật Thích Ca đến thành Quảng Nghiêm, nói kinh Dược Sư dưới cây Tiếng Nhạc là cây Thông. Phật thuyết pháp trong rừng thông, gió lay động làm tiếng thông reo, người có tâm thanh tịnh cảm nhận như là tiếng nhạc Trời.
Thành Quảng Nghiêm là tên khác của thành Tỳ Da Ly, nơi Phật đã thuyết kinh Duy Ma.  Đây là thành phố tương đối văn minh, sạch đẹp, con người và thiên nhiên sống hài hòa với nhau. Đức Phật đưa đại chúng đến thành phố an vui, để nói việc vui; Phật thuyết pháp tùy duyên là như thế.
Đến thành Quảng Nghiêm, một cảnh vui tươi, an lạc, khác với cảnh chết người của thành Vương Xá, Văn Thù Sư Lợi Bồ tát hỏi Phật về Tịnh độ của các Đức Phật; nói cách khác, ngoài thành này còn có thành nào tốt đẹp hơn nữa hay không.
Đức Phật trả lời rằng từ đây hướng đến phương Đông cách mười muôn ức cõi nước chư Phật, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Giáo chủ cõi này là Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai. Khi còn tu hạnh Bồ tát, Ngài có mười hai lời nguyện, để cứu giúp mọi người  có được cuộc sống vật chất và tinh thần tốt đẹp nhất.
Đức Phật đã giới thiệu thế giới Tịnh Lưu Ly cách chúng ta rất xa, xa đến mười muôn ức thế giới và cũng đẹp như thế giới Cực Lạc của Đức Phật Di Đà. Tuy nhiên, hai thế giới này có hai mô hình khác nhau, có cách trang nghiêm khác nhau; vì môi vị Phật có tâm nguyện, hạnh nguyện khác nhau, tức nhân địa tu hành Bồ tát đạo của hai vị này khác nhau. Tuy nhiên, dù khác thế nào chăng nữa, thế giới của các Đức Phật cũng đều hoàn toàn tốt đẹp.
Đức Phật Dược Sư xây dựng thế giới Tịnh Lưu Ly trên căn bản của 12 lời nguyện, trong đó cũng có những nguyện giống với 48 nguyện của Đức Phật Di Đà. 12 lời nguyện này để ứng vào hoàn cảnh xã hội và yêu cầu của mọi người ở Ta bà. Chúng ta còn nhớ Đức Phật Thích Ca xưa kia phát Bồ đề tâm hành Bồ tát đạo, tình thương của Bồ tát rất lớn và đối tượng của tình thương đó là chúng sinh đau khổ vô cùng. Thấy chúng sinh khổ thì thương, nhưng khả năng còn giới hạn, làm sao cứu được. Đức Phật Thích Ca cũng nguyện thành Vô thượng Đẳng giác, nghĩa là có đầy đủ khả năng cứu giúp, mới trở lại độ chúng sinh. Phật Dược Sư cũng phát nguyện như vậy và 12 lời nguyện của Ngài rất thực trong cuộc sống.
Nguyện thứ nhất, Đức Dược Sư phát nguyện chứng được Vô thượng Bồ đề là đạt được trí tuệ tột đỉnh để giúp cho mọi người hết khổ, được an vui và họ biết phục vụ lại người khác. Vì Ngài biết rõ tất cả chúng ta đều có khả năng mang an vui, hạnh phúc cho mình, cho người; nhưng vì thiếu trí tuệ, bị vô minh ngăn che, nên không thể giải thoát, không làm được việc lợi ích cho đời.
Thời Phật Dược Sư xa xưa vậy mà Ngài đã biết được lợi ích vô cùng của trí tuệ. Ngày nay chúng ta dễ dàng nhận thấy sức mạnh của con người không bằng con hổ, con voi, nhưng khống chế được chúng nhờ trí tuệ.
Và thời hiện đại là thời văn minh khoa học, cũng do trí tuệ loài người được phát huy cao, nên tạo ra được những tiện nghi tốt đẹp cho cuộc sống của con người. Nhưng loài người phát huy trí tuệ mà không có tình thương chỉ đạo, không hướng đến việc phục vụ con người một cách tốt đẹp, mà lại gây ra đau khổ rất nhiều cho chính con người và cho muôn loài. Thí dụ con người tìm ra nguyên tử năng là sức mạnh lớn nhất, nhưng không sử dụng để phục vụ hoàn toàn cho con người; trái lại, dùng nó để giết người. Điển hình là hàng triệu người chết vì bom nguyên tử thả xuống Hiroshima và Nagasaki ở Nhật Bản. Hoặc trong chiến tranh Việt Nam, người Mỹ cũng sử dụng vũ khí hiện đại là chất độc da cam, khiến cho chiến tranh chấm dứt đã 30 năm mà vẫn còn để lại hậu quả thật là thảm khốc cho nhiều người.
Trí tuệ con người phải kèm theo lòng từ bi mới có thể phục vụ lợi ích cho nhân loại. Xây dựng thế giới Tịnh Lưu Ly, Đức Phật Dược Sư phát nguyện phát huy hiểu biết cao nhất để phục vụ cho người dân ở đó được hưởng cuộc sống sung sướng nhất. Thế giới Cực Lạc của Đức Phật Di Đà cũng vậy. Đó là hai mô hình thế giới văn minh của Phật chỉ có tình thương và xây dựng hạnh phúc tối đa cho người dân; ở Tịnh độ đó không có ác độc, nguy hiểm, giết người, đói khát, bệnh tật, đau khổ, v.v…  như thế giới văn minh của loài người ngày nay thường hủy diệt mạng sống của con người và các loài hữu tình khác, cũng như gây ra vô số bệnh tật quái ác, tạo ra những rủi ro vô cùng, hiểm nguy vô tận.
Bồ tát muốn cứu chúng sinh, phải có trí tuệ cao nhất để khai thác tài nguyên trong không gian, trong lòng đất nhằm phục vụ con người mà không gây thiệt hại cho các loài, cho sự sống của trái đất. Và Đức Phật Dược Sư đã đạt được mục tiêu đó. Ngài chuyển những khó khăn thành tiện nghi tốt nhất của thế giới thuần tịnh, cũng đẹp nhất và an vui nhất như Cực Lạc vậy.
Tụng kinh Dược Sư, niệm Phật Dược Sư, nghĩ đến lời nguyện thứ nhất của Đức Dược Sư, chúng ta nỗ lực nâng hiểu biết của mình lên đến tầm cao. Giả sử chúng ta sinh về đó, cũng để học hỏi, thực hành và xây dựng được thế giới văn minh như Đức Phật Dược Sư; không phải để hưởng thụ. Thật vậy, Tịnh độ của Đức Phật Dược Sư có những vị Bồ tát như Nhựt Quang, Nguyệt Quang, Dược Vương, Dược Thượng, Bảo Đàn Hoa … và nhiều vị Bồ tát lớn. Các Ngài là những bậc Thầy có trí tuệ tuyệt vời để chúng ta theo học, chắc chắn việc kiến tạo những Tịnh độ không phải là việc làm ngoài tầm tay của chúng ta.
Nguyện thứ hai của Đức Phật Dược Sư là có được thân như ngọc lưu ly, trong ngoài sáng suốt, tinh sạch hoàn toàn, hào quang chiếu mười phương khiến cho chúng hữu tình trông thấy là được an lành. Người Ta bà phát triển trí tuệ, nhưng thân tâm ác độc, ô uế, nên đã tạo ra khổ đau cho nhau. Thực tế cho thấy con người càng khôn thì càng làm khổ nhiều người. Ngày xưa, con người đánh nhau bằng tay, sau đánh bằng đá, cho đến bằng gươm giáo và tiến đến súng đạn, vũ khí tàn phá giết người hàng loạt. Văn minh kèm theo tâm tham vọng và sự ác độc đã gây tác hại vô cùng cho chính con người và cho mọi loài.
Nguyện thứ hai của Đức Phật Dược Sư rất hay, nên Thầy cũng phát nguyện tu theo. Thân tâm của Đức Phật Dược Sư tinh sạch hoàn toàn, đọc đến đây, tự xét thân và tâm chúng ta có tỳ vết hay không, để chúng ta bắt đầu điều chỉnh, sửa lần.
Tâm trong sạch là không phiền não, nghiệp chướng, trần lao. Còn ba thứ này là có tỳ vết. Và tất nhiên người thấy tỳ vết của ta, họ sẽ chỉ trích. Tu hành, chấp nhận sự phê phán của người, không buồn giận; nhưng cám ơn họ, vì ta không thể thấy lỗi của mình. Họ không thích, không kính, vì ta có lời nói không êm tai, mát lòng tiêu biểu cho khẩu nghiệp. Từ khẩu nghiệp, mới tạo thành ngôn ngữ mà người không chấp nhận. Còn thân nghiệp vì mình đã tạo nhiều tội, nên thân hôi dơ, xấu xí, bệnh hoạn.
Vì thế, tu hành, chúng ta chuyển đổi nghiệp thân thành thân công đức, bằng cách dùng thân này phục vụ chúng sinh hay xã hội. Thầy thấy nhiều người có ngoại hình không đẹp, nhưng họ biết tu, lo phục vụ người khác; đó là dùng công đức trang nghiêm thân, nên họ cũng được nhiều người quý mến. Thầy có kinh nghiệm pháp tu này. Lúc còn là học Tăng, Thầy lo quét dọn sạch sẽ nhà vệ sinh của đại chúng. Chắc chắn đại chúng không cần mình đẹp, chỉ cần nhà vệ sinh sạch đẹp. Thầy đã nhiệt tình và vui vẻ làm công việc này, mọi người đều thọ ơn, nên họ thương quý Thầy. Do làm công việc tốt mà nhận được cảm tình của người khác là dùng công đức trang nghiêm. Người nghĩ đến ta, hay nhìn thấy ta là thấy việc tốt của ta. Chúng ta tu hành không có gì trang nghiêm, làm sao người thương. Phải dùng công đức trang nghiêm như Đức Phật Dược Sư. Về thân bên ngoài, dễ thấy nhất, nên lo phục vụ, không gây phiền hà thì người ta sẽ nghĩ mình tốt, biết lo cho mọi người.
Đọc kinh Dược Sư, niệm Phật Dược Sư, chúng ta phải sửa đổi thân cho trong sạch và nhờ người phát hiện chỉ giùm. Khi có được thân tốt rồi, nghĩa là không ai chê trách. Chúng ta không làm gì lợi ích cho người, nhưng cũng không làm phiền ai; đó là giai đoạn tu Tiểu thừa. Nhưng sang bước thứ hai, tu Đại thừa, phải dùng công đức trang nghiêm, tức làm việc tốt để trang nghiêm thân. Tinh thần này của Bồ tát được Tổ sư dạy trong bài sám Quy mạng rằng "Kỳ hữu kiến ngã tướng, nãi chí văn ngã danh, giai phát Bồ đề tâm, vĩnh xuất luân hồi khổ …”, nghĩa là ta thành tựu được nhiều việc tốt lành đến mức người trông thấy, hoặc chỉ nghe đến tên, họ cũng phát tâm Bồ đề, mãi mãi thoát khỏi khổ đau của kiếp sống luân hồi.
Chúng ta theo Đức Phật Dược Sư phát nguyện tu hành, chuyển hóa thân mình cho trong sạch, dùng giới đức trang nghiêm thân, người ngoài không chỉ trích được. Ngoài ra, làm nhiều việc lợi ích cho đời, khiến người phát tâm là đã thể hiện phần nào ý nghĩa của Đức Dược Sư nguyện "Chúng hữu tình ở nơi tăm tối cũng thấy thân ta và được an lành”.
Song song với thân trong sạch, sâu kín trong tâm chúng ta, cũng nhận chân được tâm duyên khởi lên vọng tưởng điên đảo, hay tâm lắng yên. Phải giữ cho tâm trí lắng yên. Chúng ta tụng kinh, lễ Phật, kinh hành, ăn uống, v.v… , nói chung, mọi sinh hoạt đều phải ở trong trạng thái tĩnh thức, tâm trí lắng yên.
Thí  dụ, ăn thì lo ăn, không nghĩ ngon dở; vì tâm lắng yên, không phân biệt thức ăn. Chỉ cần ăn để sống, là ăn trong tĩnh thức, tâm không phân biệt là không vọng niệm, nên thức ăn ngon dở cũng vậy. Còn khởi tâm thức ăn dở thì nuốt không vô.
Tụng kinh cũng vậy, tập trung tâm trí, theo dõi lời Phật dạy, suy nghĩ về những lời nguyện của Đức Dược Sư như thế nào mà Ngài thành Phật. Đức Phật Thích Ca nói về việc làm của Đức Phật Dược Sư để nhắc nhở chúng ta làm theo Ngài. Nói cách khác, Đức Phật đưa ra mẫu người tiêu biểu là Đức Phật Dược Sư nhằm dạy chúng ta hành Bồ tát đạo, để tự trang nghiêm mình, trong tương lai chúng ta cũng đạt được quả vị như Đức Phật Dược Sư.
Nguyện thứ ba của Đức Phật Dược Sư là sử dụng được phương tiện; vì thông minh và đạo đức, nhưng không có phương tiện, không làm được. Thí dụ, phải có bình lọc nước là phương tiện để lọc nước cho sạch; cũng vậy, tâm người dơ bẩn thì phải có pháp để thanh lọc tâm cho trong sạch.
 Vì thế, Đức Phật Thích Ca khẳng định rằng vì chúng sinh nhiều nghiệp chướng, nên Ngài đưa ra nhiều pháp môn là những phương tiện tu để hóa giải. Điển hình như trước kia Đức Phật không theo pháp tu khổ hạnh nữa, khiến năm anh em Kiều Trần Như nghĩ xấu về Ngài. Đến khi Đức Phật thành đạo, Ngài trở lại giáo hóa năm vị này. Họ nhận thấy Phật thân tâm thanh tịnh, nên tôn kính, mới độ được họ. Đức Phật tìm được phương pháp tu để hóa giải những suy nghĩ cố chấp của họ, giúp họ đắc được quả vị La hán.
Ngày nay, hành đạo Bồ tát ở Ta bà, đối tượng của chúng ta là chúng sinh, chúng sinh nghiệp, chúng sinh phiền não. Niệm Phật Dược Sư, nhớ nghĩ đến lời nguyện thứ ba của Ngài, chúng ta cũng cố gắng tìm cách tốt nhất để hóa giải chúng sinh, chúng sinh nghiệp, chúng sinh phiền não. Nếu chưa hóa giải được ba thứ này trở nên tốt đẹp, chúng ta cũng không cho chúng tác hại tâm mình.
Nguyện thứ tư, nếu có người theo tà đạo, Đức Dược Sư khiến họ trở về chánh đạo. Nếu theo nhị thừa, Ngài khiến họ cầu Vô thượng giác. Phải có khả năng, uy tín, đạo lực, mới chuyển đổi được người khác đi theo con đường chân chánh. Không đủ uy tín, đạo lực mà nói là bị họ giết, như ở Ấn Độ có 93 tôn giáo, trong đó có nhiều người rất ác; nói khác là họ giết liền.
Xưa kia, Đức Phật Thích Ca cảm hóa được hàng tà đạo, người mê tín, vì Ngài có đủ ba nguyện đầu tiên giống như Đức Phật Dược Sư. Ngày nay, cũng có tà đạo rất nhiều. Tà đạo làm sai trái và dọa nạt người. Đức Dược Sư nhận thấy rõ khi tu Bồ tát đạo, nói họ không nghe, còn bị giết. Vì thế, Ngài nguyện rằng sau khi thành Phật, Ngài sẽ giáo hóa những người xấu ác này. Với người theo tà đạo, Ngài khiến họ trở về chánh đạo. Người tu nhị thừa, hay Thanh văn thì chỉ nhận, không cho, khất thực xong rồi tu cho riêng họ. Duyên giác thì lo phát huy hiểu biết của tự thân. Sống trong xã hội, nếu mọi người chỉ lo riêng bản thân mình, dễ tạo ra sự tranh chấp. Thấy như vậy, Đức Phật Dược Sư nguyện chuyển tâm ích kỷ của người thành tâm vị tha, tức cầu Vô thượng giác. Phát Bồ đề tâm, thấy được lợi ích vô cùng của sinh hoạt toàn diện hài hòa là vô ngã vị tha và phát huy mọi việc làm theo hướng kết hợp tất cả cùng thăng hoa. Tuy nhiên, muốn làm được việc chung như thế, bản thân ta phải làm trước, phải có nhận thức đúng đắn nhất, đời sống cao thượng nhất và đầy đủ phương tiện nhất, thì người mới theo. Nói cách khác, phải thành tựu ba điều đầu tiên như Đức Dược Sư là trí tuệ tuyệt đỉnh, thân như ngọc lưu ly và đủ phương tiện trí, mới làm được việc thứ tư là chuyển hóa được ngoại đạo và nhị thừa.
Tụng kinh Dược Sư, nghĩ đến nguyện thứ tư của Ngài, chúng ta từ bỏ tâm ích kỷ để cùng sống hài hòa với đại chúng, phát huy tâm vô ngã vị tha trên bước đường tiến đến Vô thượng Bồ đề.
Nguyện thứ năm, với người tu nhị thừa, đức Dược Sư khiến họ phát tâm Bồ đề và phát tâm rồi, Ngài khiến họ có được tam tụ tịnh giới.
Chưa thành Phật, chúng ta có lúc tốt, lúc xấu. Nhưng không tốt là hủy phạm thì đọa vào ba đường ác. Thí dụ người cúng dường, bố thí một khoảng thời gian lại khởi ác tâm, tức tâm đã thay đổi. Nhẹ nhất là thoái Bồ đề tâm, từ bỏ tâm vị tha, theo cách sống vị kỷ; nhưng hậu quả tệ hơn nữa là thân bệnh hoạn, tâm buồn phiền, hoàn cảnh sống khó khăn thêm.
Khi thoái tâm, phạm sai lầm như vậy, đáng lẽ bị đọa ác đạo; nhưng ta nhớ đến Đức Phật Dược Sư có trí tuệ tuyệt vời và công đức lực giáo hóa vô cùng, thì tiến tu trở lại được và thân tâm ta cũng được thanh tịnh.
Nguyện thứ sáu, Đức Phật Dược Sư thấy trên cuộc đời này có nhiều người thân hình xấu xí, bị người khinh chê, ruồng bỏ, vì tai điếc, mắt mù, nói năng ngọng liệu, tay chân tật nguyền, lác hủi, điên cuồng. Những người này đau khổ, họ càng ác nữa, thì sẽ bị đọa. Đức Phật Dược Sư nghĩ cứu họ, vì Ngài có trí phương tiện, là có cách giải quyết cho họ thoát khổ.
Nhắc đến nguyện này của Đức Dược Sư, chúng ta nhớ lại Đức Phật Thích Ca khen ngợi việc làm lợi ích của các Bồ tát. Lúc ấy các vị Tỳ kheo mới nói với Phật rằng họ đã xuất gia, không còn tài sản thì phát tâm Bồ đề làm được gì. Phật trả lời chỉ sợ tâm hạ liệt của các ông thôi, nếu có tâm cứu giúp vẫn làm được. Tìm đối tượng thấp hơn để dạy dỗ, họ vẫn nghe. Thí dụ ở thành phố không bằng ai, nhưng các Thầy cô trẻ về vùng sâu, vùng dân tộc, chắc chắn giảng được. Mỗi người đều có ưu điểm riêng và vận dụng ưu điểm đó thì ai cũng làm được. Phật dạy các vị Tỳ kheo khất thực có nhiều thức ăn, có thể chia sẻ cho người khác, hay cho chim ăn vài hột cơm vẫn được.
Đức Phật Dược Sư có trí phương tiện để giúp đỡ, chuyển đổi cuộc sống của người ăn hại trở thành người hướng đến Vô thượng Bồ đề, là người tốt. Nếu biết tu, sống theo lời Phật dạy, lần lần cũng được giải thoát. Kinh Pháp Hoa nhắc rằng gả cùng tử nghèo khổ vào chùa ở, chỉ quét lá cũng có cơm ăn, chỗ ở, áo mặc. Nhưng nếu biết tiết giảm sự tiêu xài, có được thặng dư, vẫn giúp người khác được.
Niệm Phật Dược Sư, chúng ta noi theo gương tốt của Ngài, giúp đỡ những người kém may mắn hơn ta. Tùy phước báo, uy tín, khả năng của mỗi người chúng ta mà đóng góp cho những mảnh đời bất hạnh có được nụ cười hạnh phúc, chắc hẳn Phật Dược Sư cũng đưa tay dẫn chúng ta tiến thêm trên con đường tốt lành này.
Nguyện thứ bảy, với những người bị bệnh hiểm nguy, lại nghèo khổ, không nhờ vả ai được, vì mọi người đều xa lánh họ. Phật Dược Sư tìm cách cứu giúp họ thoát khỏi bệnh, thân tâm được thanh tịnh, được mọi người thương yêu gần gũi.
Ngày nay, lời nguyện này của Đức Phật Dược Sư được thể hiện qua hình ảnh từ bi của các nhà sư Thái Lan dấn thân vào hoạt động cứu giúp những người mắc bệnh Aids. Tại những trung tâm do các nhà sư xây dựng và điều hành, tình thương vô ngã vị tha của người đệ tử Phật đã ban phát cho những người mắc căn bệnh quái ác của thế kỷ, mà ít ai dám gần gũi. Các sư đã hướng dẫn bệnh nhân áp dụng pháp Phật, để cắt được cơn đau hành hạ thân xác, giải tỏa được tâm khổ đau vì bệnh nghiệp và chuẩn bị tinh thần cho họ xả thân được nhẹ nhàng khi rời bỏ kiếp người tạm bợ này đến một thế giới an lành.
Nguyện thứ tám, với người mang thân phụ nữ chịu nhiều đau khổ, Phật Dược Sư cũng có cách hướng dẫn họ tu hành, chuyển thành thân nam, bằng cách chuyển đổi tâm người nữ và chuyển nghiệp của người nữ.
Tâm người nữ là tâm yếu đuối, cần người chăm sóc. Nay nương theo Đức Phật Dược Sư, tự phấn đấu đi lên. Sinh hoạt thực tế cho thấy cũng có những phụ nữ làm được nhiều việc quan trọng hơn nam giới. Vì vậy, người nữ cần thay đổi tánh yếu hèn và nỗ lực vươn lên để tạo nam tính. Chuyển nữ thành nam bằng cách phát huy trí tuệ, thấp nhất cũng có việc làm, cao hơn là giữ vị trí lãnh đạo cao cấp trong xã hội như làm Tổng Thống, Bộ trưởng, Chủ tịch, v.v… , tức thể hiện được trí tuệ và phước báo hơn người. Tuy mang thân phụ nữ, nhưng ý chí như đàn ông, là đã tạo được những yếu tố cần có của nam giới.
Trước khi tu, nghĩ rằng cần lập gia đình để sống, cần có người bạn đời để nương tựa, cần có những tình cảm ủy mị. Nhưng tu theo Phật Dược Sư, người phụ nữ phát tâm làm việc từ thiện, giúp đỡ người khác, biết tự sống độc lập, tự tạo sự nghiệp bằng chính đôi tay và khối óc của mình, biết tự tạo cho mình niềm vui trong cuộc sống, biết vui với cái vui của người khác, v.v…
Nguyện thứ chín, nếu có người sa vào lưới ma, bị tà giáo ràng buộc,Đức Phật Dược Sư hóa giải cho họ không còn sợ kẻ tà. Làm được như vậy, vì Đức Dược Sư có uy lực lớn hơn kẻ tà, thì họ mới sợ và Ngài mới khuyên được họ từ bỏ con đường tà. Ngài chuyển tâm họ hướng đến Vô thượng Chánh đẳng giác, nhờ sống trong chánh pháp, nên kẻ tà ác không hại được, gọi là tà bất cảm chánh.
Nguyện thứ mười, với những người phạm phải sai lầm, bị giam cầm, Đức Phật Dược Sư có nguyện lớn cứu những người vô minh này bằng cách đưa họ về thế giới Tịnh Lưu Ly. Nếu họ ở Ta bà, sẽ bị ba loại ma bao vây, không thoát được, nhất là ngũ ấm ma, tức nghiệp bên trong và thiên ma bên ngoài gây khó khăn, khó thoát khỏi.
Được về thế giới Tịnh Lưu Ly tu, dù làm công hèn hạ cũng không bị nợ đòi. Trước nhất, ở thế giới của Ngài, tâm được yên thì mới tháo gỡ được vô minh; còn ở đây, vô minh này lại sinh ra sai lầm khác. Xây dựng thế giới Tịnh Lưu Ly và Ngài giáo dưỡng cho người ở đó trở thành người tốt, giỏi, đạo đức, sau đó cho họ trở về Ta bà để trả nợ.
Tụng kinh Dược Sư, chúng ta cũng theo hạnh của Ngài, trong phạm vi chuyên môn, hướng dẫn người sống và làm việc theo hướng tốt đẹp để không phạm kỷ luật, làm được việc và có cuộc sống bình an.
Nguyện thứ mười một, những người cầu thức ăn mà tạo nghiệp ác, Đức Phật Dược Sư khiến họ có đủ vật thực và dạy pháp Phật, khiến họ được Vô thượng Bồ đề. Đây là cách giải quyết riêng của thế giới Tịnh Lưu Ly mà chúng ta ở đây khó hiểu được, nên không dám bàn đến.
Nhưng theo Thầy, ăn chay thì không sát hại sinh mạng của các loài. Và tiến lên, giảm việc ăn uống, ăn vừa đủ sống, cho đến ăn nhẹ, ăn ít; vì nhu cầu vật chất của ta không nhiều, có thể tự giải quyết được và còn dư thừa để bố thí cho người nghèo thiếu.
Nguyện thứ mười hai, người nghèo khổ không có áo mặc, Đức Dược Sư cho họ chẳng những đầy đủ đồ dùng mà còn có dư đồ tốt đẹp.
Hai nguyện sau cùng liên quan đến việc cơm ăn, áo mặc được Đức Phật Thích Ca giải quyết cho người tu ở Ta bà bằng "Tam thường bất túc”, nghĩa là ăn mặc ít, sống phạm hạnh, không đòi hỏi vật chất nhiều. Nhưng Đức Phật Dược Sư cho biết ở thế giới Tịnh Lưu Ly, người dân được ăn mặc thoải mái.
Tóm lại, Đức Phật Dược Sư nhận thấy rõ con người gặp nhiều khó khăn vì thiếu thốn vật chất, sức khỏe, tiền của, trí tuệ, mà lại có dư những bệnh tật, nghèo khổ, ngu dốt, tai nạn; nói chung có đủ những thứ xấu ác, nên người ta dễ dàng tạo ra nhiều tội lỗi, hoặc khó tiến tu Bồ tát đạo.
Với tâm từ bi vô lượng, phước trí vô biên, Đức Phật Dược Sư đã phát 12 lời nguyện khi hành Bồ tát đạo, dẫn đến thành quả là Ngài xây dựng được Tịnh độ tên là Tịnh Lưu Ly, một thế giới hoàn toàn tốt đẹp. Ở Đông phương Tịnh độ của Ngài, của báu dư thừa, giáo dục hướng thượng tuyệt vời, được sống chung với những bậc Bồ tát đại bi, đại trí, dưới sự hướng dẫn của Đức Dược Sư và Thánh chúng, người dân ở thế giới đó hưởng được những phương tiện tốt nhất để tiến nhanh đến quả vị Vô thượng Đẳng giác.
Để chuẩn bị hành trang về thế giới Tịnh Lưu Ly của Đức Phật Dược Sư, thiết nghĩ chúng ta tụng kinh Dược Sư, niệm Phật Dược Sư, nghĩ đến đức hạnh của Ngài, nghĩ đến thế giới thuần tịnh của Ngài, chắc chắn phải nỗ lực tu tạo theo những hạnh nguyện của Đức Dược Sư. Đó chính là những thềm thang cho chúng ta bước đến thế giới Tịnh Lưu Ly của Ngài.

SỰ TÍCH ĐỨC DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG VƯƠNG PHẬT


Theo Phật Giáo tất cả chư Phật, Bồ Tát ứng thân thị hiện ra đời vì lòng thương cứu độ chúng sanh chìm đắm trong biển khổ sanh tử. Vì chúng sanh vô lượng vô biên nên chư Phật cũng thị hiện vô số, tùy theo nghiệp lực, căn tánh của chúng sanh mà các Ngài kiến tạo quốc độ và lập đại nguyện để giáo hóa, đưa chúng sanh thoát khỏi phiền não khổ đau, có đời sống an lạc tự tại. Đức Phật Dược Sư là 1 trong vô số chư Phật có quốc độ và hạnh nguyện riêng của mình.
Dược Sư Như Lai tiếng Phạm gọi là: Bhaisajya-guru Vaidurya-prabharajyah, gọi đủ là Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai, người ta thường gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, gọi tắt là Dược Sư Phật. Theo Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện Kinh chép: “về phương Đông cách thế giới Ta Bà khoảng 10 hằng hà sa Phật độ có cõi Phật tên là Tịnh Lưu Ly, tên của Đức Phật đó là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”.

Vì sao có tên gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai? Theo kinh Dược Sư Như Lai Bản Nguyện Công Đức, nhờ trong khi tu hành Bồ tát đạo phát 12 đại nguyện giải trừ hết thảy bệnh khổ cho chúng sanh, khiến họ đầy đủ căn lành và hướng về giải thoát nên khi thành Phật, Ngài trụ ở thế giới Tịnh lưu ly, trang nghiêm như thế giới Cực lạc, cùng với 2 vị Đại Bồ tát là Nhật Quang Biến Chiếu và Nguyệt Quang Biến Chiếu làm quyến thuộc để giáo hóa chúng sanh.

Bổn nguyện của Dược Sư Như Lai là trị tất cả trọng bệnh phiền não vè thân và tâm của chúng sanh, cứu độ chúng sanh ra khỏi sanh tử khổ đau. Vì Dược Sư Như Lai có bổn nguyện thanh tịnh như vậy nên ánh sáng trong suốt hoàn toàn thanh tịnh (Lưu Ly Quang) như lưu ly vô ngại hiển hiện trên thân của Ngài, và quốc độ của Ngài cũng như vậy nên gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang.

Cũng như các Đức Phật trong mười phương, Đức Dược Sư có đầy đủ thập hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật-Thế Tôn.

12 đại  nguyện của Đức Dược Sư Như Lai

1. Nguyện khi Ta thành đạo Bồ-đề, thân đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, hào quang sáng khắp vô lượng thế giới, khiến các chúng sinh cũng được như Ta.

2. Nguyện khi Ta thành Phật, trong ngoài sáng chói hơn ánh sáng mặt trời, tự tại làm Phật, khiến các chúng sinh ở chỗ tối tăm đều nhờ ơn khai thị.

3. Nguyện khi Ta thành Phật, đầy đủ vô lượng phương tiện trí tuệ, làm cho chúng sinh đầy đủ các món thọ dụng nơi thân tâm.

4. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu các chúng sinh tu theo tà đạo đều xoay về chánh đạo, hàng Nhị thừa thì đều hướng về Nhất thừa.

5. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu có chúng sinh theo giáp pháp của Ta mà tu hành, thì đều được hoàn hảo, dù có phạm giới mà nghe đến tên Ta thì cũng trở thành thanh tịnh giới khỏi phải sa vào ác đạo.

6. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu chúng sinh nào có thân thể hèn yếu hay xấu sa, đui điếc hay câm ngọng, một phen nghe tên Ta, niệm tên Ta thì được khỏi bệnh, lại được tốt đẹp khôn ngoan

7. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu có chúng sinh không bà con thân thuộc, nghèo thiếu ốm đau, không ai giúp đỡ, mà nghe được tên Ta thì thân tâm yên lành quyến thuộc giúp đỡ cho, đến chứng đạo Bồ-đề.

8. Nguyện khi Ta thành Phật, các nữ nhân thường bị khinh dể thấp kém, nếu nghe được tên Ta thì bỏ thân nữ nhân, thành tướng trượng phu cho đến chứng quả.

9. Nguyện khi Ta thành Phật, thì các chúng sinh thoát vòng ma đạo ác kiến, về nơi chánh đạo, tu Bồ-tát hạnh mau chứng đạo Bồ-đề.

10. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu chúng sinh bị pháp vua trừng trị, trói buộc đánh đập, giam vào ngục tối, cắt xẻ v.v. mà nghe tên Ta thì đều thoát khỏi.

11. Nguyện khi Ta thành Phật, những chúng sinh bị đói khát, cầu ăn mà tạo nghiệp dữ, nếu nghe tên Ta, chuyên niệm thọ trì, thì Ta trước hết cấp cho món ăn được no đủ, sau nói pháp khiến họ tu hành được hoàn toàn an vui.

12. Nguyện khi Ta thành Phật, những chúng sinh nghèo không có áo mặc, muỗi mòng chích đốt, nóng lạnh, ngày đêm khổ sở, nếu nghe tên Ta chuyên niệm thọ trì, thì Ta theo tâm mong cầu ấy khiến được đầy đủ y phục hoa hương.


Trì tụng và thờ cúng

Tranh tượng của Phật Dược sư hay được vẽ với tay trái cầm thuốc chữa bệnh và tay mặt giữ Ấn thí nguyện. Phật Dược Sư thường được thờ chung với Phật Thích Ca Mâu Ni và A Di Đà, trong đó phật Dược Sư đứng bên trái còn Phật A Di Đà đứng bên mặt Thích Ca. Trong kinh Dược Sư, hiện nay chỉ còn bản chữ Hán và chữ Tây Tạng, người ta đọc thấy 12 lời nguyện của Ngài, thệ cứu độ chúng sinh, với sự giúp đỡ của chư Phật, Bồ Tát và 12 vị Hộ Pháp và Thiên vương.

Tại Trung Quốc, Tây Tạng, Nhật Bản và Việt Nam, Phật Dược Sư được thờ cúng rộng rãi.


Về công phu trì niệm hồng danh Đức Dược Sư, mặc dù Ngài có nhiều danh hiệu nhưng trì niệm hồng danh thường là Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Phật hay Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Theo sách Dược Sư kinh sám (HT.Trí Quang dịch), phần Niệm Phật ghi rõ niệm Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Phật. Các hành giả tu tập pháp môn Tịnh độ, niệm danh hiệu Phật A Di Đà, phải đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh và niệm đến nhất tâm. Cũng vậy, khi tu tập pháp môn Dược Sư, hành giả niệm danh hiệu Phật Dược Sư cũng phải đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh. Có thể niệm thầm, niệm ra tiếng, lần tràng hạt v.v… và niệm cho đến nhất tâm giống như các phương thức niệm Phật A Di Đà.

Về ý nghĩa Thánh hiệu: Dược sư, nghĩa đen là thầy thuốc chữa bệnh. Lưu ly là một loại ngọc màu xanh trong suốt. Quang là ánh sáng. Lưu ly quang là ánh sáng ngọc lưu ly. Dược Sư Lưu Ly Quang Phật là vị Phật có danh hiệu Thầy thuốc chữa bịnh, ánh sáng như ngọc lưu ly (HT.Trí Quang, sđd, tr.203). Đức Dược Sư hiểu biết và thông suốt tất cả y dược của thế gian và xuất thế gian, Ngài có thể chữa trị hết tất cả những thứ bệnh khổ của chúng sanh, những điên đảo vọng tưởng do tham, sân, si phiền não gây ra. Ánh sáng của Phật Dược Sư thật không nghĩ bàn “Trong ngoài sáng suốt, tinh sạch hoàn toàn, không có chút nhơ bợn, ánh quang minh chói lọi khắp nơi”. Ánh sáng ấy chiếu đến đâu đều phá hết tăm tối vô minh của chúng sanh, đem lợi lạc và diệt tất cả những bệnh khổ thân tâm của chúng sanh, khiến cho họ xa lìa mê vọng mà hướng đến giác ngộ, giải thoát.
 

Về công năng của việc trì niệm danh hiệu Phật Dược Sư, có thể nói là không thể nghĩ bàn. Theo kinh Dược Sư Như Lai Bản Nguyện Công Đức, đại dụng của danh hiệu Phật Dược Sư, điển hình có năm vấn đề sau:
 

Diệt sự tham lam mà phát tâm bố thí: Nhờ trì niệm danh hiệu Đức Dược Sư mà mở rộng tấm lòng, không còn tham lam, ích kỷ chỉ lo tích cóp cho riêng mình đồng thời luôn chia sẻ, ca ngợi và thực hành bố thí.
 

Diệt sự phạm tội mà được sự giữ giới: Đối với những tội lỗi, lầm lỡ đã gây tạo, nhờ niệm danh hiệu Ngài mà được chuyển hóa đồng thời phát nguyện sống đạo đức, lương thiện theo Chính pháp.
 

Diệt sự ganh ghét mà được sự giải thoát: Do nghiệp lực ganh ghét, đố kỵ người khác nên chịu quả báo hèn hạ, thống khổ. Niệm Phật Dược Sư sẽ khiến cho hành giả phát tâm tu học, diệt trừ khổ não, thành tựu giải thoát.
 

Diệt sự hại nhau mà được sự thương nhau: Những ý niệm oán kết, thù hận dẫn đến hành động tiêu diệt lẫn nhau, nhờ niệm danh hiệu Đức Dược Sư mà được hóa giải. Không những không còn làm hại nhau mà còn hiểu biết, thương yêu và tôn trọng lẫn nhau.
 

Được sanh Cực lạc hay các sự chuyển sanh khác: Đối với những hành giả phát tâm niệm Phật A Di Đà, cầu vãng sanh Cực lạc thì niệm Phật Dược Sư là một sự trợ duyên rất quan trọng. Chư Phật, các Đại Bồ tát trong pháp hội Dược Sư luôn trợ hóa cùng Phật A Di Đà, tiếp dẫn chúng sanh về Cực lạc. Ngoài ra, nhờ công đức tu tập Thánh hiệu Phật Dược Sư mà hành giả được đầy đủ phước báo, sanh về các thế giới an lành.
 

Ngoài ra, nhờ năng lực bổn nguyện của Phật Dược Sư, những chúng sanh thọ trì danh hiệu Ngài được tiêu trừ tất cả bệnh khổ và thành tựu mọi sở nguyện, sở cầu.

Bảy tôn tướng của Đức Dược Sư Như Lai

Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ. Thông thường, “chúng sinh” là chỉ cho bất cứ sinh thể nào cảm nhận được cảm giác (có cảm thọ) – dễ chịu, khó chịu và trung tính. Như thế, chúng ta là những chúng sinh, và các loài sinh vật khác cũng là những chúng sinh; nhưng nhà cửa và cây cỏ thì không phải là chúng sinh bởi vì chúng không có cảm giác.

Có hai loại chúng sinh: hàm thức và giác ngộ. Một chúng sinh hàm thức, hay là một sinh thể đang sống, là chúng sinh mà tâm của nó đang bị bóng tối vô minh bao phủ. Một chúng sinh giác ngộ là một chúng sinh đã hoàn toàn thoát khỏi bóng tối của vô minh.
 

Cũng như các loài hàm thức có nhiều khía cạnh sai biệt, các vị đã giác ngộ cũng thế. Các vị đã giác ngộ biến hóa ra vô số hình thức sai khác để lợi lạc muôn loài sinh linh. Có khi họ xuất hiện dưới dạng những thiên thần, có khi như loài người, đôi khi lại như những loài phi nhân. Có khi họ xuất hiện như những vị Tỳ kheo, có khi lại như những vị ngoại đạo sư, có khi như một người điên hoặc xấu ác, và thậm chí có khi như những vật thể vô tri giác. Các hóa thân của những đấng giác ngộ biến mãn khắp các thế giới, nhưng vì tâm chúng ta bị bao phủ bởi vô minh nên chúng ta không nhận ra được.
 

Đức Phật Dược sư là một đấng giác ngộ có lòng bi mẫn vô biên đối với hết thảy chúng sinh. Ngài hộ trì chúng sinh tránh khỏi những đớn đau về tâm hồn và thể xác, khỏi những hiểm nguy và chướng ngại, và giúp họ trừ diệt ba độc tố - tham trước, sân hận và si mê – cội nguồn của mọi bệnh tật và nguy hại. Ngài là đấng Y vương Toàn giác.
 

Theo các Kinh điển Phật Giáo thì Đức Dược Sư Như Lai có 7 tôn tượng. Có thuyết cho là mỗi vị có mỗi đại nguyện và ứng thân riêng từng vị. Có thuyết cho là các Ngài từ nhất thể là Đức Dược Sư Như Lai mà phân thân ứng hiện (ứng thân), danh hiệu của các Ngài là: Thiện Danh Xưng Cát Tường Như Lai; Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai; Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai; Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Như Lai; Pháp Hải Lôi Âm Như Lai; Pháp Hải Thắng Huệ Du Hý Thần Thông Như lai; Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.











Một số hình ảnh trong ngày mùng 9 tháng giêng, khai kinh  DƯỢC SƯ tại chùa Vạn Thiện ,quận 5, tp Hồ Chí Minh.












( V.A. sưu tầm )

Chủ Nhật, 1 tháng 3, 2015

SAO XUÂN THẦM LẶNG QUÁ !


Mùa xuân lại về ! 
Với mọi nhà, là cơ  hội xum vầy bên bếp lửa, bên bánh mứt, cành mai ... là rộn ràng, hối hả chuần bị đón giao thừa... là những lời chúc tụng một năm mới khỏe mạnh, an khang ... 
Và xuân cũng chẳng là gì với bao mảnh đời cơ cực ...
Thấu hiểu những hoàn cảnh đó , Viện chủ chùa Vạn Thiện đã chuẩn bị một chương trình đặc biệt vào 10h30 khuya ngày mùng 1 tết với 200 phần quà  ...


Viện chủ chùa Vạn Thiện chuẩn bị quà từ trước Tết.


Mọi người đều háo hức với việc làm đầy ý nghĩa


Khách viếng chùa bất ngờ với chương trình ... cùng xuất phát.


Nhóm 1 về hướng quận Bình Thạnh.


Nhóm 2 về hướng quận 7.


Nhóm 3 về hướng quận 11 ( ba thế hệ cùng xung phong ! )


Quà và bao lì xì.


Nhóm 4 về hướng quận 8.


Ông cụ bán vé số


Hai cha con dưới chân cầu thang chung cư Phạm Thế Hiển, quận 8.


Người dọn chợ Phạm thế Hiển, quận 8.


Ông cụ lượm bao nylon.


Chú bán đồ chơi nhựa.


Bà cụ bán thuốc lá.



Bà cụ ngồi bên đường bến Bình Đông,quận 8.


Cô lượm ve chai.


Công nhân vệ sinh.


Chú chạy xe ba gác.


Anh phu khuân vác.


Chú chạy xe ôm với giấc ngủ đêm mùng 1.


Bên bờ tường 1 nhà máy đường bến Bình Đông. quận 8.


Chú nhắt bao nylon.


Người vô gia cư bên bớ kênh bến Bình Đông. 



Mong ông được vui với món quà nho nhỏ.


Anh bán vé số ngủ trên sạp bên lề đường.


Bị đánh thức nhưng thật vui .


Hai thầy trò sợ chú xe ôm giựt mình, chỉ dám kêu nho nhỏ ...

Cũng chỉ là kẹo, mứt, bánh trái với 1 bao lì xì 20.000 $ ...
Chẳng là gì với bao người khá giả ....
Nhưng là niềm vui thật lớn lao của  người cho và người nhận ....
Còn gì hơn giữa phố xá vắng vẻ lại nhận được món quà ý nghĩa cho ngày Tết ...

NAM MÔ HOAN HỶ TẠNG BỐ TÁT MA HA TÁT.

( Ban Từ thiện chùa Vạn Thiện )


QUÀ TẾT DÀNH CHO ĐỒNG BÀO KHÓ KHĂN, ĐOÀN SINH CHUYÊN CẦN GĐPT TỈNH TÂY NINH VÀ TP HỒ CHÍ MINH.


Thừa lệnh của  Ni sư viện chủ chùa Vạn Thiện, vào ngày 24 tháng chạp năm Giáp Ngọ, Sư cô Trụ trì chùa Vạn Thiện làm trưởng đoàn đã cùng ban từ thiện chùa đã về thăm và trao 100 phân quà cho đồng bào nghèo tại chùa Phước Ân, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh, mỗi phần quà gồm 10kg gạo,1 thùng mì, dầu ăn, nước tương, mứt, bánh, kẹo, bột ngủ cốc,nước ngọt ... trị giá mỗI phần quà là 250.000 $
Sau đó, đoàn cũng đã về thăm và phát quà cho 50 đoàn sinh GĐPT tỉnh Tây Ninh, mỗi phần quà gồm : 15 gói mì, bánh kẹo, mứt, tập vở, bột ngũ cốc, nước ngọt ... trị gía  1 phần quà là 200.000 $.
























Chiều cùng ngày,đoàn từ thiện đã về chùa Vĩnh Nghiêm, quận 3,TP HCM trao 200 phần quà, mỗi phần gồm tập vở, bánh, kẹo, mứt, nước ngọt cùng 15 gói mì. Thượng tọa Thích Thanh Phong, trú trì chùa Vĩnh Nghiêm dã tặng mỗi đoàn sinh 15 gói mì, 10 kg gạo và 01 phong bì 200.000 đồng. Tổng giá trị phần quà là 500.000 đồng.
Huynh trưởng cấp Dũng Tâm Duệ Nguyễn Đức Châu, thay mặt Ban Hướng dẫn cũng như các đoàn sinh được nhận quà đã bày tỏ lòng tri ân của tổ chức với Thượng tọa Thích Thanh Phong cũng như  Ni sư Viện chủ  và sư cô trú trì chù Vạn Thiện đã luôn quan tâm tạo điều kiện nhiều mặt hỗ trợ cho sinh hoạt tu học của GĐPT thành phố.
Sư cô Thích Nữ Như Giới ban đạo từ tán dương  công đức của anh chị em Huynh trưởng GĐPT , đã dày công vun trồng thế hệ mầm non cho Phật Giáo, đồng thời sách tấn toàn thể đoàn sinh hiện diện luôn chuyên cần tu tập để xứng đáng là thế hệ kế thừa của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

















Ban từ thiện chân thành tri ân công đức của Thượng tọa trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm, Ni Sư Viện chủ chùa Vạn Thiện, Sư cô trụ trì chùa Vạn Thiện, quý ân nhân, quý vị hảo tâm, Phật tử đã ủng hộ chương trình ý nghĩa này. 
Ban từ thiện cũng chân thành càm ơn quý Huynh trưởng GĐPT TP Hồ Chí Minh, quý huynh trưởng GĐPT tỉnh Tây Ninh đã hết minh hỗ trợ để chương trình được thạp phần viên mãn.

Nguyện cầu hồng ân Tam Bảo hộ trì Chư Tôn Thiền Đức Tăng, Chư Tôn Thiền Đức Ni pháp thể khinh an, chúng sanh dị độ. 
Kính chúc toàn thể quý vị ân nhân ,quý vị hảo tâm, quý Huynh trưởng thân tâm thường lạc, Phật sự viên thành.

NAM MÔ HOAN HỶ TẠNG BỒ TÁT MA HA TÁT.

( Ban tử thiện chùa Vạn Thiện, quận 5,tp HCM )