Thực hành hạnh vô úy thí còn có nghĩa là giúp chúng sanh khắc phục
tư tưởng sợ hãi, khiếp nhược yếu hèn, tự ti mặc cảm, giúp chúng sanh hiểu được
điều Đức Phật giác ngộ dưới cội cây bồ đề và giảng dạy khắp tam tạng kinh điển.
Đó chính là: "Tất cả chúng sanh ai ai cũng đều có Phật Tánh như nhau, tất
cả đều bình đẳng, và tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật, giải thoát mọi khổ
đau phiền não, nếu biết tu tập, thực hành đúng Chánh Pháp". Trong các kinh
điển Phật giáo, đó là bốn bước: khai, thị, ngộ, nhập. Nghĩa là Đức Phật khai mở
cánh cửa giải thoát; chỉ thị cho con người thấy được, hiểu được "pháp vô
sanh", đó là cái "bất sanh diệt", đó là "con người chân
thật" của tất cả chúng ta, chứ không phải cái xác thân giả tạm đang có;
giúp cho con người làm sao giác ngộ được "pháp vô sanh" và cuối cùng
chỉ dạy đường lối tu hành làm sao chứng nhập được "pháp vô sanh" đó.
A.Mở
đề
- Tu hạnh lợi tha để nhiếp hóa chúng sanh là bổn phận của Bồ Tát.
- Với tinh thần “thượng cầu phật đạo hạ hóa chúng sanh” Bồ tát lấy đó làm hành
trang để đưa đạo Phật đến với mọi loài.
- Con đường hóa độ có nhiều cách nhưng không ra ngoài pháp môn tứ nhiếp pháp.
B. Chánh đề
I. Định nghĩa
Tứ nhiếp pháp là bốn phương pháp lợi tha để nhiếp phục chúng sanh quay về với
phật pháp.
Tứ nhiếp pháp gồm : + bố thí nhiếp.
+ ái ngữ nhiếp.
+ lợi hành nhiếp.
+ đồng sự nhiếp.
a. Tứ nhiếp pháp theo kinh luận Tiểu thừa
-
Theo các kinh luận Tiểu Thừa thì giá trị của Tứ nhiếp pháp chỉ được giới hạn
trong phạm trù nhân quả Nhân Thiên cho cả tại gia và xuất gia mà thôi.
- Đối với hàng Phật tử tại gia, đức Đạo sư dạy về Tứ nhiếp pháp, chú trọng về
phần danh và có lợi ngay trong hiện đời này và đời sau, nhờ hành Tứ nhiếp pháp
như theo Trung A-hàm 33, kinh Thiện Sanh, đức Đạo sư dạy con của một nhà cư sĩ:
“Này con nhà Cư sĩ, có bốn nhiếp sự. Bốn việc ấy là gì? Một là huệ thí. Hai
là lời nói khả ái. Ba là làm lợi cho người. Bốn là có lợi cùng chia.”
Đối với hàng xuất gia thì chú trọng về tinh thần nhiều hơn là chú trọng về vật
chất như Phật tử tại gia.
Như trong kinh Tạp A-hàm quyển 26 kinh 636, đức Đạo sư dạy các Tỳ-kheo:
“Bố thí tối thắng, đó là pháp thí. Ái ngữ tối thắng, là khiến thiện nam tử
thích nghe, nói pháp đúng lúc. Hành lợi tối thắng là đối với người không có tín
khiến có tín, xác lập trên tín; đối với người học giới thì xác lập bằng tịnh
giới; đối với người bỏn xẻn thì bằng bố thí; đối với người ác trí huệ thì bằng
chánh trí mà xác lập. Đồng lợi tối thắng, là nếu A-la-hán thì trao cho người
quả A-la-hán. A-na-hàm thì trao cho người quả A-na-hàm. Tư-đà-hàm thì trao cho
người quả Tư-đà-hàm. Tu-đà-hoàn thì trao cho người quả Tu-đà-hoàn. Người tịnh
giới thì trao người bằng tịnh giới.”
Cũng kinh Tạp A-hàm quyển 26, nhưng kinh 637 thì đức Đạo sư dạy các Tỳ-kheo có
một vài sai biệt trong vấn đề thời gian ba đời, khi đề cập đến Tứ nhiếp pháp
trong lúc nhiếp thủ đại chúng, có thể tùy thuộc vào một trong bốn pháp này, nếu
thấy thích hợp để nhiếp thủ đại chúng:
“Nếu như có pháp nào để nhiếp thủ đại chúng thì tất cả đều ở trong bốn nhiếp
sự. Hoặc một nhiếp thủ là bố thí, hoặc một nhiếp thủ là ái ngữ, hoặc một nhiếp
thủ là hành lợi, hoặc một nhiếp thủ là đồng lợi. Ở trong thời quá khứ, những
pháp nào đã nhiếp thủ đại chúng trong thời quá khứ cũng không ngoài bốn nhiếp
sự. Những pháp nào sẽ nhiếp thủ đại chúng trong thời vị lai cũng không ngoài
bốn nhiếp sự. Hoặc một pháp nhiếp thủ là bố thí, hoặc một pháp nhiếp thủ là ái
ngữ, hoặc một pháp nhiếp thủ là hành lợi, hoặc một pháp nhiếp thủ là đồng lợi.”
Vd : như câu chuyện trong tăng Nhất Ahàm quyển 22 kể về con gái vua Ai Mẫn la
Tu Ma Na tu hạnh tứ nhiếp Pháp.
b. Tứ nhiếp pháp theo kinh luận Đại thừa
-
Theo kinh luận Đại thừa thì giá trị của Tứ nhiếp pháp được nâng cao hơn trong
việc thực hành Bồ-tát đạo để hoàn thành giác hạnh viên mãn cho quả vị Phật của
các hàng Bồ-tát, nên tự thân giá trị của nó phải được đặt nặng trong việc lợi
tha vô điều kiện dành cho cả hai hàng Bồ-tát xuất gia cùng tại gia.
- Vì vậy cho nên cũng cùng Tứ nhiếp pháp nhưng có sự sai khác về phương pháp
hành nhân cũng như kết quả của nó tùy thuộc vào thuộc tính của Tiểu thừa và Đại
thừa: Đó là có điều kiện giới hạn trong nhân quả, và vô điều kiện giới hạn
trong nhân quả.
- Theo kinh Ưu-bà-di Tịnh hạnh pháp môn, quyển thượng, đức Đạo sư đã kể về
Ngài khi còn làm người thường thực hành Tứ nhiếp pháp:
“… Bố thí, Ái ngữ, Lợi ích (lợi hành), Đồng sự để nhiếp hóa chúng
sanh mỗi khi có bất cứ chúng sanh nào muốn tìm cầu điều gì Ngài cũng đáp ứng
những yêu cầu của họ mà không làm trái lại với ý của họ. Nhờ công đức vô điều
kiện này mà Ngài đã tích tụ thiện nghiệp sâu rộng cho đến khi chỉ còn một đời
cuối cùng là “nhứt sinh bổ xứ” trong thời gian này Ngài thường hưởng nhạc Trời
và khi sinh xuống thế gian này đạt được hai tướng đại nhơn đó là: Tay chân mền
mại, các ngón tay chân liên kết bỡi một màn da mỏng (man võng). Vì hai tướng
này, nếu là người ở tại gia thì làm Chuyển luân Thánh vương cai trị bốn châu
thiên hạ, nếu là người xuất gia thì đạt được ngôi vị Pháp vương, khéo nhiếp
phục tất cả vô lượng chúng sanh, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di,
Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già,
nhơn, phi nhơn v.v…”.
Và cũng theo Đại tập kinh quyển thượng, đức Đạo sư dạy tôn giả Xá-lợi-phất về
việc thực hành của các hàng Bồ-tát về Tứ nhiếp pháp theo thể cách của Ba-la-mật
Đại thừa không cần biết đến kết quả hồi báo của hành động người thực hành Tứ
nhiếp, miễn sao việc làm của họ mang lại lợi lạc cho chúng sanh và đưa họ về
đường chánh thì làm, còn việc mang lại lợi lạc cho chính bản thân của người
thực hành là như thế nào không để ý đến!
“… Đối với Bồ-tát Tứ nhiếp cũng không thể tận. Sao gọi là Bốn? Một là
Bố thí, hai là Ái ngữ, ba là Lợi hành, bốn là Đồng sự.
- Sao gọi là Bố thí? Thí có hai loại: Tài thí và Pháp thí.
- Sao gọi là Ái ngữ? đối với người cầu tài và người nghe pháp phải dùng lời
nói nhu hòa.
- Sao gọi là Lợi hành? là đối với người cầu tài và nghe pháp phải tùy theo
những gì họ cầu mà đáp ứng đầy đủ.
- Sao gọi là Đồng lợi? là đối với người cầu tài và pháp phải dùng pháp Đại
thừa tự lợi khiến an chỉ họ”.
- Hơn nữa, Bố thí có nơi gọi là xả tâm. Ái ngữ, là thực hành không giới hạn.
Lợi hành, cuối cùng không hối hận. Đồng lợi, hồi hướng về Đại thừa.
- Hơn nữa, Bố thí là khởi lòng từ bi, thực hành xả bỏ tư hữu. Ái ngữ, không bỏ
tâm hỷ. Lợi hành, trang nghiêm đại bi làm lợi chúng sanh. Đồng lợi, đối với
trên dưới xả bỏ, phát tâm hồi hướng Nhất thiết chủng trí.
- Hơn nữa, Bố thí, cầu tài như pháp, hành thí thanh tịnh. Ái ngữ, dùng từ hòa
hướng dẫn, an chỉ vào pháp thiện. Lợi hành, nói về tự lợi, là để lợi ích mọi
người. Đồng lợi, khiến mọi người phát tâm Nhất thiết trí.
- Hơn nữa Bố thí, phải xả cả trong lẫn ngoài. Ái ngữ, công đức trí tuệ, tâm
không tham luyến. Lợi hành, bỏ tự lợi hành lợi tha. Đồng lợi, xả bỏ địa vị quan
trọng, tâm không hối tiếc.
Pháp thí, như những pháp đã được nghe tất phải diễn nói lại. Ái ngữ, không vì
lợi dưỡng mà nói pháp. Lợi hành, khuyên bảo người đọc tụng, tâm không biết mêt
mỏi. Đồng lợi, nhất thiết trí là tâm được pháp vi diệu, tức là dùng pháp vi
diệu này khích lệ chúng sanh.
- Hơn nữa, pháp thí là nếu có chúng sanh nào mỗi lần nghe pháp, theo thứ tự vì
họ mà nói không sai lầm. Ái ngữ, vì người nói pháp không từ xa gần. Lợi hành,
có người cầu pháp, nên cung ấp, y phục, đồ ăn thức uống, ngọa cụ, thuốc men trị
bệnh khiến cho họ không thiếu, trước làm cho họ yên sau đó tùy theo sở cầu của
họ mà diễn nói. Đồng lợi, Khi nào giảng thuyết cho mọi người thì thường phải
khuyên chúng sanh hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác
(A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề: anuttara-samyak-sambodhi).
- Hơn nữa, Pháp thí, đối với trong những pháp Bố thí thì Pháp thí là tối thắng,
nên dùng pháp thắng này mà vì mọi người diễn nói. Ái ngữ, thường vì lợi ích
chúng sanh mà nói. Lợi hành, tùy thuộc vào nghĩa của thuộc tính mà nói chứ
không tùy theo văn tự. Đồng lợi, thường vì để hoàn bị Phật pháp đầy đủ nên nói.
- Hơn nữa, Bố thí phải đầy đủ Đàn-na Ba-la-mật (dāna-pāramitā). Ái ngữ, phải
đầy đủ Thi-la Ba-la-mật (śīla-pāramitā). Lợi hành, phải đầy đủ Tỳ-lị-da
Ba-la-mật (vīrya-pāramitā). Đồng lợi, phải đầy đủ Thiền-na Ba-la-mật
(dhyāna-pāramitā). Hơn nữa, Bố thí là mới phát khởi Bồ-đề. Ái ngữ, là tu tập
thực hành Bồ-đề. Lợi hành là không thối thất Bồ-đề. Đồng lợi là Nhất sinh bổ
xứ.
- Hơn nữa, Bố thí là an trụ căn bổn chủng tử Bồ-đề. Ái ngữ, nuôi lớn mầm thân
cành lá Bồ-đề. Lợi hành là từ từ triển khai ra hoa Bồ-đề. Đồng lợi, tự có khả
năng thành tựu thật quả Bồ-đề. Đó gọi là Bồ-tát nhiếp hóa chúng sanh không thể
tận.”
II. Bố thí nhiếp
- Bố là cùng khắp, ban bố rộng rãi không phân biệt.
- Thí là đem cho. Tùy theo đối tượng mà dịch nghĩa là : cúng dường, cho, biếu,
tặng, dâng,…
- Bố thí nghĩa là đem những gì mình có được như tiền tài, vật chất, sự hiểu
biết, giáo giáo của đức Phật,… cho đến người khác với sự thương yêu và tôn
trọng.
- Người nhận nhờ việc làm này mà được an vui, vượt qua được khổ ách.
Bố thí có 3 loại :
1) Tài thí: tức bố thí tiền.
2) Pháp thí: tức bố thí pháp.
3) Vô úy thí: tức bố thí sự không sợ hãi.
- Khi nói đến sự bố thí, thì ta nhận ra có ba yếu tố tạo ra nó, đó là: người
cho (năng thí), món đồ (vật thí), và người nhận (sở thí).
Ba món Bố thí mà ta vừa kể trên (Tài, Pháp, Vô úy) thuộc về vật thí. Còn người
cho và người nhận, ta đã sơ xuất bỏ quên.
- Ba yếu tố cho ra sự Bố thí quan trọng lắm, nếu thiếu một trong ba cái đó
thì sẽ không có sự Bố thí.
Vd : Có người cầm trong tay một món đồ muốn cho mà không có ai nhận thì không
có sự bố thí. Có món đồ mà không có người cho và người nhận thì cũng không có
sự bố thí. Có người sẵn sàng nhận đồ mà không có ai cho thì cũng không có sự bố
thí.
* Nếu muốn phân loại thì ta phải căn cứ trên ba yếu tố của sự Bố thí mà phân
loại:
- Trên phương diện người cho (dayaka) thì có hai loại: Bố thí trong sạch và
không trong sạch.
- Trên phương diện vật thí thì có ba loại: Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí
- Trên phương diện người nhận (tức đối tượng của sự bố thí), còn được gọi là
ruộng phước (phước điền) thì có hai loại: ruộng phước nhỏ và ruộng phước lớn.
Trên đây chỉ là tạm phân loại tổng quát thôi, vì mỗi loại lại được phân ra làm
các phần nhỏ nữa.
a. Trên phương diện người thí
Có hai loại bố thí: Trong sạch và không trong sạch.
1) Thế nào là bố thí không trong sạch ?
Đó là bố thí vì: tư lợi, bất kính, chán ghét, yếu hèn, muốn dụ dỗ, sợ chết,
muốn chọc tức, ghen tức, ganh đua, kiêu ngạo, cầu danh, tránh né sự nguy hiểm,
muốn mê hoặc lòng người,… Tóm lại bố thí vì một cái tâm xấu xa, không nghĩ đến
sự an vui hay lợi ích cho người nhận.
2) Thế nào là bố thí trong sạch?
Đó là sự bố thí có tánh cách ngược lại những gì đã mô tả ở phần trên. Còn có
nghĩa là Bố thí mà muốn đem lại lợi ích cho người nhận.
Vừa kể trên là sự bố thí trong sạch cho tất cả mọi người.
Riêng cho Phật tử thì Bố thí trong sạch còn có nghĩa là bồi đắp công đức
cho sự giải thoát, tức Niết Bàn (Nirvàna).
Phải bồi đắp cách nào? Bằng cách bố thí với tâm trong sạch, không cầu phước báo
của Trời (Deva), người (Manusya), không cầu sự sung sướng trong đời này và đời
sau, chỉ cầu giải thoát của Niết Bàn, bố thí với tấm lòng cung kính (satkàra)
hoặc từ bi (maitrìkarùna).
Trong lúc chưa chứng được hoàn toàn quả Niết Bàn, ta vẫn tái sinh ở cảnh
an vui của Trời, người (mặc dù không cố ý cầu), đó là do nghiệp báo tốt của sự
bố thí trong sạch.
- Kinh Tăng Chi chương 2 pháp Đức Phật có nói rằng: ‘Trên đời này có hai hạng
người rất là hiếm có: 1) Một vị Tỳ Khưu đã hoàn toàn giải thoát trong số các tu
sĩ lang thang (pravajita); 2) Một người biết bố thí trong sạch trong số các cư
sĩ tại gia.’
b. Trên phương diện vật thí
Có ba loại: Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí.
Trong mỗi loại trên lại chia ra: chân chính và không chân chính.
1. Tài thí
Tài
thí lại chia ra hai loại: Ngoại thí và Nội thí.
a) Ngoại thí (bàhyadàna)
Ngoại thí là bố thí những đồ vật bên ngoài như: vàng, bạc, của cải, quần áo, đồ
ăn thức uống…
b) Nội thí (àdhyàtmika)
Nội thí là bố thí những gì trong thân thể con người chúng ta; như xưa kia đức
Phật còn làm Bồ Tát đã bố thí đầu, mắt, chân, tay…
Vd : Ngày nay ta không làm nổi như vậy thì ta có thể ra công giúp sức như làm
công quả cho chùa, kéo xe cho người già, v…v… Hoặc tiếp máu cho bệnh nhân ở nhà
thương, hoặc ký giấy cho những bộ phận trong thân thể mình nếu bị chết bất đắc
kỳ tử.
* Tài thí chân chính: là những đồ vật được bố thí không phải do từ trộm cắp hay
cướp giật.
* Nếu ngược lại là tài thí không chân chính.
* Ngoài ra nếu ta bố thí trong những trường hợp sau đây thì phước báo sẽ tăng
lên gấp bội:
1. Bố thí đúng lúc. Có nghĩa là bố thí cho: những người đi xa, người từ xa mới
đến, người bịnh, người trông coi kẻ bịnh, trong những mùa giá lạnh.
2. Bố thí luôn luôn mà không thấy mệt mỏi hay chán nản.
3. Bố thí tùy theo sở thích của người xin.
4. Bố thí những vật quí giá.
5. Bố thí cho những người làm việc cho Chùa, làm vườn, đào mương..
6. Bố thí cho chư Tăng.
7. Bố thí mà kính trọng người nhận.
8. Bố thí cho những người có đức hạnh.
9. Bố thí tất cả những gì mà mình có.
2) Pháp thí
Thế nào là pháp thí?
Được xem là pháp thí gồm có:
1. Tất cả những lời nói chân thật, hữu ích có thể đem lại an lạc cho người
nghe.
2. Giảng dạy chánh pháp của đức Phật (Buddhadharma).
3. Giảng dạy ba Tạng pháp: Kinh (Sùtra), Luật (Vinaya) và Luận (Abhidharma).
4. Giảng dạy cho người biết hai pháp: Thanh văn (Sravaka) và Bồ Tát
(Bodhisattva).
3) Vô úy thí
Vô úy thí có nghĩa là bố thí sự không sợ hãi, tức là làm cho người khác được an
tâm yên chí, không sợ gì cả.
Theo nguồn gốc Kinh tạng nguyên thủy (Anguttara, Itivuttaka) thì chỉ có hai
loại Bố thí, đó là Tài thí và Pháp thí. Nhưng theo giáo lý Đại thừa (Mahayàna),
có thêm vào một loại bố thí thứ ba là Vô úy thí.
Theo ý kiến cá nhân, thì tôi thấy Vô úy thí nằm trong Tài thí hoặc Pháp thí. Vì
sao? Vì khi bố thí, tức là cho, thì có hai cách: một là cho bằng hành động, hai
là cho bằng lời nói. Nếu bằng hành động thì đó thuộc Tài thí, còn nếu bằng lời
nói thì đó thuộc Pháp thí.
4. So sánh Tài thí với Pháp thí.
Đa số chúng ta ai cũng biết trước là Pháp thí quý hơn Tài thí.Chính đức Phật đã
nói:
“Trong hai loại Bố thí này, thì Pháp thí là trên” (Anguttara I). Vì
sao? Vì nhiều lý do:
- Phước báo của Tài thí vẫn thuộc cõi Dục giới (Kàmadhatu) còn phước báo của
Pháp thí có thể nằm trong ba cõi (Traidhàtuka) hoặc ngoài ba cõi.
- Sự Bố thí tài (tiền của, đồ vật) có giới hạn, còn sự Bố thí Pháp không có
giới hạn (apramàna), vì tiền cho lâu rồi cũng hết, còn giáo pháp cho hoài không
bao giờ hết.
- Quả báo của Tài thí còn thuộc về hữu lậu, trong khi quả báo của Pháp thí
thuộc vô lậu.
- Bố thí tài cần phải đòi hỏi nhiều sức lực, ra công trong khi bố thí pháp chỉ
cần sự thông minh và trí tuệ.
- Chỉ có bố thí Pháp mới có thể gặt hái được những phước báo giống như các hàng
Thanh Văn (Sravaka), Bích chi Phật (Pratyekabuddha) hay Bồ Tát (Bodhisattva).
- Chỉ có bố thí Pháp mới có thể dẫn người khác đến con đường giác ngộ
(Bodhimàrga).
- Ta có thể thực hành Tài thí trong bất cứ thời đại (Kalpa) nào, dù có Phật hay
không có Phật ở đời. Ngược lại, chỉ trong thời đại có một đức Phật ra đời ta
mới có thể thực hiện Pháp thí được. Vì thế Pháp thí hiếm hơn Tài thí.
- Bố thí Pháp sẽ gặt hái được nhiều công đức hơn tài thí.
III. Ái ngữ nhiếp
Một thời Thế Tôn trú ở Vesàli, tại Mahavàna, dạy các Tỷ kheo: Thành tựu
năm chi phần, này các Tỷ kheo, các lời là thiện thuyết, không phải ác thuyết,
không có phạm lỗi và không bị những người có trí chỉ trích. Thế nào là
năm?
Nói đúng thời, nói đúng sự thật, nói lời nhu hòa, nói lời liên hệ đến lợi
ích, nói lời với từ tâm.
Thành tựu năm chi phần, này các Tỷ kheo, các lời là thiện thuyết, không phải
ác thuyết, không có phạm lỗi và không bị những người có trí chỉ trích.
(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ II, chương 5, phẩm Bà la môn, phần Lời nói, VNCPHVN ấn
hành, 1996, tr.701)
- Lời nói là điều rất cần trong việc diễn tả tâm tư tình cảm của mọi người.
- Nói đúng thời đúng lúc, đúng căn cơ thì giá trị của lời nói được tăng lên rất
nhiều và có tác dụng rất lớn.
- Hành xử và nói năng sao cho vừa ý, đẹp lòng nhau là cả một nghệ thuật sống
với nền tảng là sự chân thật, minh triết và từ bi.
- Đôi khi người ta hay ca ngợi một người nào đó sao khéo ăn nói vì biết cách
thuyết phục người để làm lợi cho riêng mình, khiến người khác làm theo chủ ý
của mình. Thực ra, hành vi và cách nói năng này không phải là thiện thuyết,
khéo nói mà là ỷ ngữ, nói lời thêu dệt, phù phiếm, nịnh hót làm mê hoặc người.
- Lời nói phải nhẹ nhàng, hòa ái nhằm mang đến sự tin cậy và hòa hợp trong sự
mong ước mình và người đều được lợi ích.
- Quan trọng hơn, lời nói phát ra vì lòng từ, vì tình thương, luôn mong muốn
cho người được an lành, lợi lạc. Cho nên những ai biết "nói như hoa” đúng
lúc, đúng với sự thật, nhu hòa, lợi ích và từ ái thì chắc chắn người này gặt
hái được nhiều an vui, hạnh phúc.
IV. Lợi hành nhiếp
Phương pháp Lợi Hành nhiếp, nghĩa là dùng những việc làm, hành vi có lợi cho
người khác để thu phục lòng tin của họ.
Tuy nhiên khi chúng ta hành lợi cũng luôn tùy thuộc vào đối tượng để làm lợi có
thể phân ra làm bốn loại:
a. Dùng phương tiện chỉ bày đối với những người thiện không có đức.
b. Tán dương khen ngợi những người thiện có đức.
c. Quở trách những người ác dễ điều phục.
d. Dùng thần lực để hàng phục những người ác khó điều phục, khiến cho họ bỏ ác.
Hai loại trước gọi là Tập thiện nhiếp hay nhiếp thủ tập hợp thiện, hai
loại sau gọi là Ly ác nhiếp hay nhiếp thủ để lìa ác.
1. Tập thiện nhiếp là phương pháp nhiếp phục đối với những
người hiền thiện, nghĩa là thu nhóm – tập hợp các điều lành.
Trong nhóm này lại chia ra làm hai trường hợp:
·
Một là đối với những người chưa
từng làm điều thiện.
·
Hai là đối với những
người đã biết làm điều thiện.
Với
những người chưa từng làm điều thiện, người biết vận dụng Lợi Hành Nhiếp sẽ
dùng phương tiện gần gũi, tùy thuận với họ, rồi tìm những cơ hội thuận tiện,
thích hợp để khuyên dạy, khuyến khích họ phát tâm làm việc thiện.
Nhờ làm điều thiện nên người ấy có thể đạt được nhiều an vui, hạnh phúc trong
đời sống, do đó mà sinh ra kính tin người đã khen ngợi, khuyến khích mình.
2. Ly ác nhiếp là phương pháp nhiếp phục đối với những người
đã đi nhầm vào đường ác, nghĩa là làm cho họ phải rời xa, lìa bỏ những việc
không tốt đã làm.
Có hai cách để làm được điều này:
- Một là dùng những lời lẽ chân thật, đúng đắn để chỉ trích, quở trách hoặc
dùng các biện pháp trừng phạt, nghiêm trị, làm cho họ phải nhận thấy rõ lỗi lầm
mà hối cải.
- Hai là dùng sự uy dũng, mạnh mẽ của mình để khuất phục những kẻ ngang ngạnh,
cứng rắn, buộc họ phải lìa bỏ việc ác không dám tái phạm.
- Người vận dụng Ly ác nhiếp phải có đủ sự hiểu biết & sức mạnh để khuất
phục làm cho họ không thể chống lại được.
- Sau khi lìa bỏ những việc không tốt đã làm, những người ấy sẽ đạt được đời
sống an ổn & hạnh phúc hơn, do đó mà họ nảy sinh sự tin phục, kính trọng
đối với người đã giúp mình .
- Tập Thiện nhiếp & Ly Ác nhiếp đều nhắm đến cùng một mục đích là khuyến
thiện trừ ác, nhưng vận dụng cách nào là tùy thuộc vào đối tượng, có nhiều
trường hợp cần phải vận dụng cả hai.
- Người vận dụng Lợi Hành nhiếp phải luôn hướng đến việc giúp cho người
khác có thể phát tâm làm việc thiện & từ bỏ việc ác, như thế mới gọi là làm
lợi ích cho người một cách chân chánh.
V. Đồng sự nhiếp
Phương pháp nhiếp hóa bằng tất cả hành động, ý nghĩ vệc làm có lợi ích cho
người; nghĩa là thu phục lòng người bằng cách cùng chia sẻ mọi việc với họ
- Lợi hành có hai loại:
1. Lợi hành trong công việc vật chất: Chia xẻ những gì mình có thể
chia xẻ được qua tài vật của mình.
2. Lợi hành trong công việc tinh thần: Chia xẻ kiến thức Ðạo học,
kinh nghiệm tu tập mà mình đã thành tựu được.
- Đồng Sự nhiếp còn được chia ra thành hai loại là Đồng Khổ Sự nhiếp & Đồng
Lạc Sự nhiếp.
* Đồng khổ sự nhiếp là cùng người khác trải qua gian
nan hoạn nạn, khó khăn khổ nhọc, nhờ đó mà lấy sự chân thành chia sẻ, an ủi
động viên, giúp sức cho họ vượt qua khó khăn, nhờ đó mà tạo được sự cảm mến,
tin phục.
* Đồng lạc sự nhiếp là cùng người khác trải qua những
hoàn cảnh thuận lợi, vui vẻ, luôn thân cận gần gũi để nhắc nhở khuyên răn, giúp
người không rơi vào chỗ đam mê trụy lạc.
- Nhờ có sự khuyên răn nhắc nhở ấy mà giúp cho họ giữ được đời sống
an vui hạnh phúc. Do đó mà tạo được sự cảm mến – tin phục.
- Người thực hành Đồng Sự nhiếp phải xuất phát từ sự chân thành, thật tâm chia
sẻ không giả dối, ngụy tạo.
- Trong lòng có thực sự thương yêu, thông cảm thì mới có thể cảm hóa được người
khác nghe theo mình.
- Nếu chỉ thân cận gần gũi người khác vì những mục đích trục lợi thì không thể
gọi là đồng sự nhiếp, những trường hợp ấy, sớm muộn gì cũng bị người khác nhận
ra & khinh rẻ .
VI. Lợi ích của Tứ nhiếp pháp
Nếu ta thực hành đúng theo Tứ Nhiếp Pháp ta sẽ thấy những kết quả sau đây:
1. Về phương diện cá nhân:
-
Gieo nhân nào sẽ gặt được quả đó.
- Mỗi ý nghĩ, mỗi lời nói, mỗi hành động của ta sẽ là một hạt giống thiện gieo
vào ruộng phước, sau nầy ta sẽ gặt được những kết quả quý báu, tốt lành.
- Ta có thể thu hút nhân tâm một cách dễ dàng, rộng rãi, và mỗi khi đi
đến đâu, ta đều được tiếp đón một cách chân thành, nồng nhiệt. Do đó, ta sẽ dễ
dàng thành công trong mọi việc.
2. Về phương diện gia đình:
- Khi người ngoài, xa lạ mà còn mến phục, thương yêu ta, thì sao cha mẹ, vợ
con, anh em là những người thân thuộc lại không quý mến ta được?
- Do ảnh hưởng tốt đẹp và uy tín của ta, mọi người trong gia đình đều trở thành
thuần lương, đức độ cả.
- Đây là mẫu gia đình hạnh phúc: trên thuận dưới hòa, trong ấm ngoài êm.
3. Về phương diện xã hội:
-Người tu hạnh Tứ Nhiếp pháp sẽ gây được ảnh hưởng tốt lành và hoán cải được
một phần nào hoàn cảnh xã hội.
Số người tu Tứ Nhiếp Pháp càng nhiều thì xã hội lại càng được cải tiến, và trở
thành thuần lương, thiện mỹ.
- Người ta thường trách đạo Phật là tiêu cực yếm thế. Những lời chỉ trích sai
lầm ấy, chỉ đem một giáo lý Tứ Nhiếp Pháp nầy ra chứng minh, cũng đủ đánh đổ
được ngay.
- Nếu áp dụng triệt để Tứ Nhiếp Pháp vào cuộc đời thực tế, thì xã hội sẽ được
cải tiến một cách vô cùng lợi lạc.
C. KẾT LUẬN
- Tóm lại, Tứ nhiếp pháp là bốn phương pháp mà đức Đạo sư đã dạy cho các hàng
đệ tử của mình từ bậc xuất gia và các hàng đệ tử Bồ-tát tại gia.
- Bốn phương pháp này khiến cho các hàng đệ tử Thinh Văn Tiểu thừa và
Bồ-tát Đại thừa sinh khởi lòng thân ái, và lòng từ bi để hướng dẫn chúng sanh
hữu tình đi vào Đạo một cách dễ dàng và nhẹ nhàng nhất về cả hai mặt tinh thần
lẫn vật chất.
- Ở đây, cả hai đều có lợi: một bên hoàn thành hạnh nguyện Bồ-tát của mình, một
bên xa lánh được tà kiến vô minh để trở về với chánh kiến giải thoát.
- Tuy giữa Tiểu thừa và Đại thừa qua Tứ nhiếp pháp có những phương pháp sai
khác nhau phát xuất từ từng thuộc tính căn cơ nên việc áp dụng tu tập cũng theo
đó mà có được, nhưng trên đại thể vẫn mang dấu ấn tự lợi lợi tha trong chức
năng hoàn thành việc tu tập của hành giả theo nhân quả hay duyên khởi mà thôi.
V.A. sưu tầm ( Nguồn tin: CLB Trái Tim Từ Bi )