Đức Phật Thích ca nguyên tên là Tất
đạt đa. Họ Ngài là Thích ca, một chi nhánh của họ Kiều tất la, là một quý tộc.
Tên Ngài nói đủ là Kiều tất la Thích ca Tất đạt đa (Kosala akya Siddhrtha). Còn
Mâu ni là đức tính trong sạch, vắng lặng của Ngài, chỉ là tiếng để khen ngợi.
I. VÀI NHẬN ĐỊNH KHI HỌC LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT
1. Ngài là một vị Đại
Bồ tát ra đời vì bản nguyện độ sanh, vì lẽ đó, lịch sử của Ngài có tính cách
siêu việt hơn người thường.
2. Vì lòng từ bi lợi
tha và tự chủ trong sự thọ sanh, nên mỗi cử động trong đời Ngài đều hướng về sự
giáo hóa trên đường giải thoát.
3. Nên nhận rõ ý nghĩa
của lịch sử hơn là câu nệ từng chi tiết nhỏ.
II. THÂN THẾ CỦA NGÀI
Đức Phật Thích ca
nguyên tên là Tất đạt đa. Họ Ngài là Thích ca, một chi nhánh của họ Kiều tất
la, là một quý tộc. Tên Ngài nói đủ là Kiều tất la Thích ca Tất đạt đa (Kosala
akya Siddhrtha). Còn Mâu ni là đức tính trong sạch, vắng lặng của Ngài, chỉ là
tiếng để khen ngợi.
Ngài là con vua Tịnh
Phạn nước Ca tỳ la vệ (Kapilavastu), mẹ Ngài là Hoàng hậu Ma da. Nước Ca tỳ la
vệ tức là xứ Pipaova ở phía Bắc thành Ba la nại (Bénares) ngày nay.
III. NGÀY VÀ CHỖ SINH CỦA NGÀI
Thái tử sinh lúc mặt
trời vừa mọc, nhằm ngày trăng tròn tháng hai Ấn Độ, tức là ngày mồng tám tháng
tư lịch Tàu. Ngài sinh vào khoảng 563 năm trước Tây lịch. Theo tục lệ Ấn Độ đàn
bà có chồng lúc sinh nở phải trở về nhà cha mẹ. Bà Hoàng hậu Ma da trở về ngang
qua vườn Lâm tỳ ni của vua Thiện Giác thì sinh Ngài dưới cây vô ưu. Khi mới
sinh, Ngài đứng trên hoa sen, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, miệng nói:
"Trên trời dưới trời chỉ một mình ta là lớn."
IV. TƯỚNG MẠO VÀ TÀI NĂNG CỦA THÁI TỬ
Thái tử sinh ra có
nhiều điềm lạ: quả đất rung động, vừa sinh ra Ngài đã đi bảy bước,... mọi người
đều hân hoan đón mừng vị cứu tinh xuất hiện. Thái tử sinh ra đã có 32 tướng tốt
báo trước Ngài là một vị xuất chúng và Ngài sẽ thành Phật để dìu dắt muôn loài.
Ngài sinh ra vừa được bảy ngày, mẹ Ngài từ trần. Bà dì Ngài là bà Ma ha Ba xà
ba đề nuôi nấng chăm sóc Ngài. Ngài rất thông minh, các vị giáo sư danh tiếng
dạy Ngài đều phải bái phục.
V. ĐỜI SỐNG CỦA THÁI TỬ
Thái tử sống trong cảnh
cực kỳ sung sướng và được sự nuông chiều hết sức của vua cha. Xung quanh Ngài
luôn luôn có vũ nữ ngày đêm đờn ca xướng hát để làm vui lòng Ngài. Tuy nhiên,
Thái tử vẫn trầm tư mặc tưởng. Trên mặt luôn luôn lộ nét buồn kín đáo và, một
đôi khi Ngài đã tỏ với vua cha xin đi xuất gia để tìm phương cứu mình, cứu đời.
Đoán biết ý con, vua Tịnh Phạn sinh sợ sệt và tìm đủ mọi cách tăng thêm dục
lạc, mong làm khuây được chí nguyện xuất gia của Ngài.
VI. CHÍ NGUYỆN XUẤT GIA CỦA THÁI TỬ
Sau nhiều lần mục kích
những thảm trạng già, đau, bệnh, chết và sự bất công mạnh hiếp yếu, khôn lấn
dại, trong những cuộc du ngoạn ở bốn cửa thành. Thái tử Tất đạt đa cảm nhận
được những nỗi thống khổ của con người. Lòng thương chúng sanh bồng bột nổi
dậy, Thái tử không còn vui được nữa.
Với một ý chí cương
quyết tìm chân lý, nên trong một đêm kia sau buổi yến tiệc linh đình, Ngài đã
cưỡi ngựa Kiền Trắc vượt thành xuất gia với tên hầu cận trung thành Xa nặc;
giữa lúc mọi người đang chìm trong bóng tối và mê man theo giấc ngủ. Ngài ra đi
lúc 19 tuổi, ngày mồng tám tháng hai vào lúc giữa đêm.
VII. TÌM CHÂN LÝ VÀ TU ĐẠO
Đi sâu vào rừng đến bờ
sông Anoma, Ngài cắt tóc và thay đổi y phục trao lại bảo Xa nặc đem về dâng Phụ
hoàng và tỏ rõ sự tình. Từ đây, Thái tử đã trở thành một đạo sĩ và dấn thân
trên đường tìm đạo. Ngài đi đến thành Vương xá (RajagrÌha) xứ Ma kiệt đà, tìm
đến các vị Đạo sĩ Bà la môn mà tham khảo phương pháp tu hành. Sau một thời gian
tu luyện, Ngài không thỏa mãn vì cho rằng chưa được rốt ráo. Ngài liền vào rừng
Ưu lâu tần loa xứ Phật đà già da (Bouddhagaya) tu hạnh ép xác, một ngày chỉ ăn
một hạt mè, hạt gạo và suy nghĩ trong sáu năm, song vẫn thấy vô hiệu. Ngài nhận
thấy lối tu khổ hạnh ấy không phải là lối tu giải thoát. Và sau khi nhận bát
sữa của nàng Tu xà đề dâng cúng, thân thể bình phục, tâm hồn sảng khoái, Ngài
đến dưới gốc cây bồ đề ngồi trên thảm tọa và phát nguyện: "Nếu không tìm
ra chân lý thì thà chết ta không rời thảm tọa này". Trải một thời gian
thiền quán, Ngài đã chiến thắng được tất cả những tật xấu xa của thân thể và
nội tâm. Ngài lại uốn dẹp được mọi sự phá rối của ma vương bên ngoài.
Đầu đêm, Ngài chứng
được Túc mạng minh, thấy rõ ràng những đời quá khứ, hiện tại, vị lai; nửa đêm,
Ngài chứng được Thiên nhãn minh, thấy được cả vũ trụ bao la; cuối đêm vào lúc
sao mai mọc, Ngài chứng được Lậu tận minh, nhận chân nguồn gốc sanh tử luân hồi
là sự mê mờ gọi là vô minh, và hoàn toàn giác ngộ.
Ngài đã thành đạo vào
lúc sao mai mọc, ngày 8 tháng Chạp. Sau khi thành đạo, Ngài đã than: "Than
ôi! Chúng sanh vốn đầy đức tướng trí huệ Như lai, nhưng chỉ vì vô minh che lấp
nên phải sanh tử luân hồi đấy thôi!".
VIII. THUYẾT PHÁP ĐỘ SANH
Sau đó, Ngài liền đến
vườn Lộc uyển nói pháp Tứ đế độ cho năm ông tỳ kheo (Kiều trần như, Ac bệ, Thập
lục ca diếp, Ma ha nam Câu ly và Bạc đề). Từ đó đạo Ngài truyền khắp xứ Trung
Ấn Độ và lan mãi khắp hoàn cầu.
IX. NHẬP DIỆT
Trải qua 49 năm trên
đường giáo hóa, Ngài đã tận lực gieo rắc ánh đạo vàng khắp đó đây, hóa độ chúng
sanh. Vô số người đã được mang ơn pháp nhũ của Ngài mà trở về với chánh đạo.
Nhơn duyên đã mãn, những người nên độ đều đã độ xong. Ngài vào niết bàn tại
rừng Ta la song thọ, để lại những nỗi thương tiếc tràn ngập cả lòng người. Ngài
nhập diệt lúc 81 tuổi, nửa đêm ngày Rằm tháng hai âm lịch.
X. VÀI Ý NGHĨA CẦN
NHẬN THỨC TRONG LỊCH SỬ PHẬT
1. Vì
lòng từ bi, Ngài ra đời cốt để vạch cho chúng sanh một con đường cao quý ý
nghĩa hơn, so với kiếp sống mong manh hiện tại.
2. Tuy
sống trang đài danh vọng, Ngài vẫn cảm thấy những nỗi vô vị của vật chất. Và
Ngài đã nói rằng: "Hạnh phúc không phải chỉ tìm trong khoái lạc của vật
chất".
3. Những
cuộc du ngoạn và nhiều lần mục kích những thảm cảnh của con người, Ngài đã cho
ta thấy rằng: "Đời là một bể khổ đầy dẫy những bất công, tội lỗi, nếu ta
duy trì mãi tình trạng mạnh hiếp yếu, khôn lấn dại, và thiếu một lòng thương
thành thật".
4. Anh
sáng có thể trở lại với những tâm hồn vị tha rộng rãi, biết hy sinh dục vọng
riêng tư. Và chỉ có chân lý Ngài đã tìm ra, sau bao cuộc thử thách chiến đấu
với ma chướng mời là phương pháp cứu khổ độ lạc.
5. Sự hy
sinh liên tiếp trong vô số kiếp của Ngài, đã làm cho Ngài trở nên một đức Phật
đầy đủ phước đức và trí huệ. Muốn cảm thông và được sức gia hộ của Ngài, chúng
ta phải thường niệm đến danh hiệu của Ngài và làm theo lời Ngài dạy.
( nguồn Chùa HOẰNG PHÁP )